ĐẾN THĂM DI CHỈ PHÙNG NGUYÊN (PHÚ THỌ)
Trước hết ta hãy đến thăm Phùng Nguyên (nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ) là di chỉ được phát hiện đầu tiên tiêu biểu cho giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên, giai đoạn mở đầu của thời đại dựng nước.

Cũng thuộc giai đoạn Phùng Nguyên còn có hơn 30 di chỉ khác phần lớn tập trung ở các tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hòa Bình, Hà Tây, Hải Phòng, Hà Nội như: Lũng Hòa, Gò Bông, Xóm Rền, Văn Điển, Tràng Kênh v.v... Phùng Nguyên và các di chỉ đồng dạng kể trên thường phân bố ở miền trước núi, dưới chân gò đồi, ven sông suối ở vùng trung du hoặc trên những thềm sông, trên những gò đồi cao nằm rải rác ở vùng đồng bằng và miền ven biển. Diện tích của mỗi di chỉ rộng hàng vạn mét vuông (có khi đến hàng chục vạn mét vuông) bởi vì đây là những làng chạ định cư khá lớn, tập trung đông đúc dân cư. Khu mộ táng thường nằm ngay trong di chỉ và cùng thời với địa điểm cư trú, đó là những ngôi mộ huyệt đất, đơn táng, thường chôn theo công cụ và đồ trang sức bằng đá, gốm.

Ở một số nơi cu trú khác của người xưa, còn thấy dấu vết chứng tỏ sự tồn tại của những "công xưởng" chế tác đá, chuyên sản xuất đồ nghề, đồ dùng, đồ trang sức, ví dụ như ở di chỉ Tràng Kênh (Hải Phòng)
Phùng Nguyên và các di chỉ thuộc văn hóa khảo cổ Phùng Nguyên đã cho chúng ta những hình ảnh cụ thể, sinh động về cuộc sống của người xưa qua những hiện vật họ để lại.
Người Phùng Nguyên đã chế tác được rất nhiều hiện vật thuộc các loại đồ đá, đồ gốm, đồ xương và một ít đồ đồng.Hiện vật bằng đá của họ rất phong phú về loại hình và số lượng: nào là rìu, đục, giáo, lao, qua, mũi tên, mũi nhọn, mũi khoan, chì lưới, bàn mài, bàn dập gốm. Rìu bốn Phùng Nguyên loại lớn dài đến 10 cm, loại nhỏ có cái chỉ dài 1,3 cm, có loại hình thang, có loại hình chữ nhật (rìu tứ giác), có loại có vai, có nấc, có loại vừa có vai vừa có nấc. Đục cũng gồm nhiều loại: Đục lưỡi thẳng, đục vũm... Bàn mài đã phát triển thành nhiều kiểu: Bàn mài ráp, bàn mài mịn, bàn mài vũm, bàn mài rãnh, kiểu "dấu Bắc Sơn", kiểu "dấu Hạ Long"... Người Phùng Nguyên trang sức bằng vòng tay, hoa tai, hạt chuỗi, hạt cườm, những mãnh đá mỏng có lỗ để đeo, có hình đuôi cá, hình đồng xu hoặc không có hình thù nhất định. Người Phùng Nguyên đã là nghệ sĩ tạc tượng: ví dụ như tượng người đàn ông ở Văn Điển.

Họ cũng là những người thợ gốm tài tình và điêu luyện đã chế ra được nhiều loại đồ nấu, đồ đựng có kích thước khá lớn: những nồi, chõ, vò, bình, bát, chậu, mâm bồng... Tỷ lệ hài hoà giữa chiều cao và độ phình của đồ gốm Phùng Nguyên khiến cho chúng vừa chững chạc vừa linh hoạt. Hoa văn trang trí trên gốm đã có giá trị mỹ thuật; bằng các chi tiết kết cấu gồm có những chấm đủ các loại, những đường hình dọc đơn giản (như vạch thẳng, gấp khúc, đường cong, lượn sóng...), những kết cấu đơn giản hoặc phức tạp (như hình tam giác, hình tròn, hình mặt nguyệt, hình chữ S); và sử dụng thành thạo nhịp điệu của bố cục cũng như vận dụng khéo léo các chi tiết, người Phùng Nguyên đã tạo nên những dải đồ án hoa văn mang tính chất đối xứng, cân phân, nghiêm túc mà vô cùng linh hoạt.

Người Phùng Nguyên đã bắt đầu làm chủ vùng trung du và một phần đồng bằng Bắc Bộ, đưa nông nghiệp lên thành ngành sản xuất chủ yếu. Họ sống tập trung, định cư trên những khu vực lớn. Họ đã trồng được lúa, dùng cuốc đá để vỡ đất, dao đá để gặt hái, dùng các công cụ gỗ để khai thác lớp phù sa do lụt lội mang đến hàng năm. Sử sách xưa chép: Dân Lạc theo nước triều lên xuống để khẩn ruộng mà làm ăn, ruộng ấy gọi là ruộng Lạc. Hai nhà ngôn ngữ học Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc đã đưa ra giả thuyết đáng chú ý: ruộng Lạc có nghĩa là ruộng nước. Ruộng Lạc cũng làm cho chúng ta liên tưởng tới những từ như ruộng rặc, ruộng rộc hiện còn trong tiếng địa phương ở một số vùng trung du, hay từ rác trong tiếng Mường (có nghĩa là nước).

Bên cạnh nghề trồng lúa, nghề trồng rau củ và cây ăn quả vẫn phát triển. Tại di chỉ Tràng Kênh, qua phân tích bào tử phấn hoa, người ta đã tìm thấy hạt phấn của các loài rau đậu bên cạnh hạt phấn của lúa.

Người Phùng Nguyên cũng coi trọng nghề chăn nuôi như mọi dân cư nông nghiệp khác ở những vùng các sông lớn. Chó, trâu đã có từ thời trước; ở giai đoạn này người ta thuần dưỡng và chăn nuôi thêm: gà, bò, lợn. Tượng gà nhà đã được nặn bằng đất nung. Đất Cổ Loa (ngoại thành Hà Nội) khi chưa xuất hiện cung thành của vua Thục còn mang cái tên giản dị là Xóm Gà. Sử cũ ghi: Người Lạc Việt giỏi thuật bói toán bằng chân gà. Nghề nuôi lợn đã trở thành phổ biến. Trong nhiều ngôi mộ cổ có xương hàm lợn chôn theo. Việc thuần dưỡng trâu bò đã được chứng minh qua các xương cốt và tượng nghệ thuật : Tượng trâu bò đã tìm thấy ở nhiều nơi tại Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Nội... Ắt hẳn trâu bò đã được dùng kéo cày hay được lùa xuống giẫm cho lúa đất để dễ cấy, như người Mường trước đây còn làm như thế. Chăn nuôi gắn bó chặt chẽ với trồng trọt: đó là một đặc điểm mang tính quy luật trong lịch sử kinh tế nông nghiệp Việt Nam.

Bên cạnh kinh tế sản xuất, vẫn còn tồn tại kinh tế hái lượm ở vị trí thứ yếu. Hạt trám thường thấy trong các di chỉ. Dấu vết săn bắn cũng được chứng thực qua những xương cốt thú rừng tìm thấy trong các tầng văn hóa: Lợn rừng, hươu nai, hổ, dím, khỉ... Lợn rừng và hươu nai là những thú rừng thường phá hoại hoa màu nên đã trở thành đối tượng săn bắn chủ yếu của người xưa; ở di chỉ Tràng Kênh, xương lợn rừng chiếm 47,5%; ở Đình Chàng, xương hươu nai chiếm 40,3%, lợn rừng 15%; ở Đông Lâm, xương hươu nai chiếm tới 67,1%.

Nghề đánh cá phát triển tùy theo từng khu vực. Ở địa điểm Phùng Nguyên cạnh sông Hồng chưa thấy dấu vết của nghề đánh cá, trái lại ở địa điểm Đồng Vông bên sông Ngũ Huyện Khê (thuộc Đông Anh, Hà Nội) lại có nhiều chì lưới bằng đá và đất nung.
Các nghề thủ công ở giai đoạn Phùng Nguyên đã phát triển mạnh mẽ trong đó những nghề như: chế tác đá, làm gốm, luyện kim, đã trở thành những ngành thủ công quan trọng. 
Kỹ thuật chế tác đá đã đạt trình độ hoàn thiện: Người Phùng Nguyên đã áp dụng thành thạo tất cả các kỹ thuật chủ yếu của nghề đá: kỹ thuật ghè đẽo, kỹ thuật mài, kỹ thuật cưa, kỹ thuật khoan, kỹ thuật tiện, và kỹ thuật tu chỉnh ép. Trình độ cao của kỹ thuật chế tác đá còn được thể hiện qua các việc chọn màu đá và chất liệu đá thích ứng với nhu cầu sử dụng. Sự tồn tại của những "công xưởng" chế tác đá thể hiện rõ tính chất chuyên môn của công việc sản xuất đồ đá, cũng như sự phân công chế tạo giữa các "công xưởng" này đã phản ảnh trình độ tổ chức chuyên môn của người thợ thủ công Phùng Nguyên. 
Sản xuất đồ gốm là một ngành thủ công quan trọng với sự phát hiện và phát triển kỹ thuật bàn xoay. Người Phùng Nguyên, thợ thủ công và nghệ sĩ, đã dồn tất cả tài năng, và khiếu thẩm mỹ của mình vào việc tạo dáng gốm và trang trí hoa văn trên gốm.

Nghề đúc đồng đã ra đời ở giai đoạn Phùng Nguyên và ngày càng chiếm địa vị chủ đạo. Một số cục đồng phát hiện ở di chỉ Gò Bông được phân tích bằng quang phổ cho thấy đó là một hợp kim đồng thau gồm có đồng, thiếc và vết bạc. Việc tồn tại những xi đồng tìm thấy ở nhiều di chỉ cho thấy nghề luyện kim ở thời đại Hùng Vương là một kỹ thuật bản địa.

Nghề dệt ở giai đoạn Phùng Nguyên cũng đã có một bước phát triển nhất định qua sự tồn tại đều khắp một khối lượng lớn dọi xe chỉ. Sau một thời kỳ "dùng vỏ cây làm áo", đã đến thời kỳ trồng gai đay, trồng dâu chăn tằm, ươm tơ, dệt vải, dệt lụa. Tằm là một loài sâu nhiệt đới được tổ tiên ta chăn nuôi từ sớm. Truyền thuyết cũng nói: Thời Hùng Vương dân Lạc chăm việc nông tang. Vết tích vải còn lại qua các cuộc khai quật (dấu vải in trên đồ gốm) cho biết đó là một loại sợi nhỏ, mịn và săn.

Nghề đan lát được người Phùng Nguyên ưa thích, họ để lại cho chúng ta dấu vết những kiểu hoa văn đan trên gốm, dấu vết đồ đan trong các ngôi mộ, trong các tầng văn hoá với những kỹ thuật đan lát khá tinh vi: lóng mốt, lóng đôi, lóng thúng, lóng nia...

Số lượng tài sản khác nhau chôn theo trong các ngôi mộ cổ giai đoạn Phùng Nguyên cho chúng ta biết về sự phân hoá tài sản trong xã hội thời đó. Những mảnh trang sức hình đuôi cá, tượng đàn ông Văn Điển có thể đã phản ánh sự xác lập của chế độ quyền cha, dòng cha. Những hình tượng hoa văn trang trí trên đồ gốm những dáng hình của vòng trang sức có thể phản ánh sự tồn tại của tục thờ thần mặt trời. Tục chôn theo xương hàm lợn trong mộ cũng thường thấy ở nhiều nơi từ thời đại đồ đá mới. Nghệ thuật trang trí đồ gốm Phùng Nguyên còn giúp chúng ta khám phá những biểu hiện khá phong phú của tư duy thẫm mỹ và tư duy khoa học của người Phùng Nguyên. Nhà khảo cổ học Hà Văn Tấn sau khi phát hiện các kiểu đối xứng trên những hoa văn trang trí gốm Phùng Nguyên: kiểu đối xứng gương (đối xứng lưỡng trắc); kiểu đối xứng trục (đối xứng quay), kiểu đối xứng tịnh tiến, đã kết luận: Người Phùng Nguyên có khả năng tư duy trừu tượng, tư duy mỹ học, tư duy khoa học ở trình độ cao, thể hiện bằng nhiều hình vẽ đẹp và kỳ lạ, nhiều đồ án được tính toán rất chính xác.

Các địa điểm khảo cổ thuộc giai đoạn Phùng Nguyên có những đặc trưng văn hoá không hoàn toàn giống nhau. Người Phùng Nguyên ở lèn Hai Vai (Nghệ Tĩnh) có khác người Phùng Nguyên ở Xóm Rền (Phú Thọ), người Phùng Nguyên ở Văn Điển (Hà Nội) lại khác người Phùng Nguyên ở Tràng Kênh (Hải Phòng).
Đó là tính cánh nhiều màu vẻ của nền văn hoá khảo cổ Phùng Nguyên ở buổi đầu thời đại dựng nước.
أحدث أقدم

Bạn nên xem thêm bài này: